0987813867

Hotline bán hàng

Mua hàng

Thời gian 8:30 - 21:00

Những điều cần biết về suy giãn tĩnh mạch

Yorokobi Việt Nam 3 năm trước 440 lượt xem

1. Giãn tĩnh mạch là gì?

Giãn tĩnh mạch là bệnh lý khá phổ biến. Theo thống kê của Tổ chức Bác sĩ gia đình Hoa Kỳ, hiện nay có khoảng 10-20% đàn ông và 25-33% phụ nữ Mỹ bị suy giãn tĩnh mạch.

Đây là tình trạng các tĩnh mạch bị giãn ra, phồng lên, có thể nằm nông và nổi ngoằn ngoèo dưới da, màu tím hoặc xanh, thường xuất hiện ở chân, một số trường hợp thấy cả ở âm hộ hay trực tràng (bệnh trĩ).
 

Tĩnh mạch giãn có màu xanh, tím (Ảnh minh họa).
Tĩnh mạch giãn có màu xanh, tím (Ảnh minh họa).

Yếu tố nguy cơ của giãn tĩnh mạch:

- Tiền sử gia đình có người mắc bệnh giãn tĩnh mạch.

- Tuổi: tuổi càng cao thì nguy cơ bị giãn tĩnh mạch càng tăng.

- Thừa cân, béo phì

- Mang thai: do thay đổi hormone, thai đôi hoặc đa thai.

- Nghề nghiệp phải đứng nhiều, ít di chuyển (như giáo viên).

Giai đoạn đầu, bệnh thường ít có triệu chứng, đôi khi chỉ là cảm giác hơi khó chịu, tức nặng ở chân. Vùng da nơi giãn tĩnh mạch có thể ngứa hoặc nóng hơn. Các triệu chứng nặng dần về cuối ngày, đặc biệt khi bệnh nhân phải đứng lâu.

 

2. Nguyên nhân dẫn đến giãn tĩnh mạch ở phụ nữ mang thai.

Nhiều phụ nữ phát hiện bị giãn tĩnh mạch khi đang mang bầu. Do khoảng thời gian này, tử cung lớn dần lên, chèn ép vào các mạch máu lớn của ổ bụng (chủ yếu là phía bên phải) dẫn đến tăng áp lực tĩnh mạch ở chân.

Tĩnh mạch có chức năng chính là vận chuyển máu từ ngoại vi về tim, ngoài ra, các tĩnh mạch ở vị trí thấp như chi dưới còn phải chống lại sức cản của trọng lực cơ thể. Bên cạnh đó, khi mang thai, thể tích máu trong cơ thể nhiều hơn làm tăng gánh nặng lên hệ tuần hoàn. Đồng thời, hàm lượng hormone Progesterone cũng tăng dần về cuối thai kỳ, gây giãn thành mạch.

Tuy nhiên, sau khi sinh, các triệu chứng của bệnh sẽ giảm dần, và hiện nay cũng có rất nhiều phương pháp điều trị.

3. Bệnh giãn tĩnh mạch nguy hiểm như thế nào?

Tuy giãn tĩnh mạch có thể gây ngứa hay đau, thậm chí chảy máu (do da vùng này trở nên mỏng và dễ tổn thương) nhưng đây không phải là bệnh cấp tính, chưa gây hại ngay lập tức trong thời gian ngắn.Tỷ lệ bệnh nhân giãn tĩnh mạch có xuất hiện cục máu đông gần bề mặt da (huyết khối tĩnh mạch nông) cũng không cao. Khi hình thành huyết khối, khu vực quanh chỗ giãn tĩnh mạch trở nên nóng, đỏ và đau hơn.

Huyết khối tĩnh mạch nông thường không quá nguy hiểm. Nhưng khi tổ chức xung quanh huyết khối bị nhiễm trùng, bệnh nhân cần phải được điều trị ngay bằng kháng sinh, đặc biệt người bệnh nên đi khám càng sớm càng tốt nếu một trong hai chân sưng to bất thường, có vết loét hoặc vùng da gần tĩnh mạch đổi màu.

Đối với phụ nữ mang thai, dù không bị giãn tĩnh mạch thì vẫn có nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu, nhưng tỷ lệ này khá thấp. Chỉ khoảng 1 trên 1000 phụ nữ mang thai hoặc sau sinh vài tuần xuất hiện huyết khối tĩnh mạch sâu. Tuy nhiên, nguy cơ sẽ tăng lên với những sản phụ có rối loạn đông máu hoặc nằm lâu. Dấu hiệu chính là đột ngột thấy sưng đau ở chân, đùi, đau tăng khi đứng, kèm theo sốt nhẹ, nhưng cũng có thể chưa biểu hiện gì.

Nếu không được điều trị, cục máu đông hoàn toàn có thể di chuyển lên cao, gây tắc mạch phổi và đe dọa đến tính mạng người bệnh. Ước tính tại Mỹ, huyết khối tĩnh mạch sâu gây ra 60.000 đến 300.000 ca tử vong mỗi năm. Một số dấu hiệu sớm của tắc mạch phổi như khó thở, đau khi thở, ho (hoặc ho ra máu), nhịp tim nhanh.

4. Điều trị.

Sử dụng tất y tế: Đây là phương pháp không dùng thuốc rất thông dụng và hiệu quả. Loại tất này tạo ra áp lực lên từng phần của chân, phù hợp với sinh lý bình thường: chặt hơn ở gần cổ chân và lỏng dần khi lên cao, luôn ôm lấy chân và đẩy máu theo các tĩnh mạch đi về tim, đồng thời làm tăng tốc độ tuần hoàn máu, giảm thiểu nguy cơ hình thành huyết khối do tốc độ dòng máu chảy chậm gây ra. Tác dụng làm khép kín các van tĩnh mạch và tạo áp lực phù hợp là hai đặc tính quan trọng nhất của tất y tế mà không loại thuốc nào thể thay thế được.

Để ngăn chặn máu ứ trệ ở chân, vào buổi sáng trước khi ra khỏi giường, bệnh nhân nên đi tất ngay lúc đang nằm, và sử dụng cả ngày.

Sử dụng tất y tế chuyên dụng (Ảnh minh họa).

- Ngoài ra, với những bệnh nhân nặng hơn, còn một số phương pháp điều trị khác như tiêm xơ tĩnh mạch (kéo dài 4 đến 6 tuần, sau đó kết hợp với dùng tất y tế), đốt bằng sóng cao tần, đốt laser nội mạch hay phẫu thuật cắt bỏ tĩnh mạch bị giãn.

Các phương pháp này đều có tính hiệu quả và an toàn cao, được sử dụng rộng rãi, góp phần không nhỏ cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Các triệu chứng của giãn tĩnh mạch thường sẽ tự giảm dần trong vòng 3 đến 4 tháng sau sinh, hoặc lâu hơn. Nhưng cũng có một số trường hợp không cải thiện được nhiều, đặc biệt với những bà mẹ mang thai đôi hoặc đa thai.

Lúc này, bệnh nhân nên đi tất y tế chuyên dụng, tập thể dục nhẹ nhàng mỗi ngày, tránh ngồi hoặc đứng lâu, kê cao chân khi ngồi và ngủ. Nếu tình trạng giãn tĩnh mạch vẫn không thay đổi nhiều, ảnh hưởng đến sinh hoạt thì cần tới điều trị tại các trung tâm chuyên khoa tim mạch.

440 lượt xem, Like và chia sẻ nếu thấy thích nhé !!

0 Đánh giá sản phẩm này

Chọn đánh giá của bạn
Mã xác nhận
Nhan tu van Lien he Dat mua ngay